Miền núi Quảng Nam một thời trở thành căn cứ địa vững chắc, chỗ dựa của cách mạng trong tình hình đen tối và khó khăn nhất. Đồng bào nơi đây là lực lượng cách mạng to lớn, góp phần đánh bại mọi âm mưu của kẻ địch, trong đó có chiến dịch “Thượng du vận”.
Già làng Hồ Văn Reo với vũ khí thô sơ nhưng lợi hại dùng để đánh địch. Ảnh tư liệu |
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, khi đã từng bước ổn định ở đồng bằng, đầu năm 1957 Mỹ - Diệm chuyển lên đánh phá miền núi. Chúng mở chiến dịch “Thượng du vận”, tiến hành chống cộng, ra sức dồn dân miền núi vào các khu tập trung ở giáp ranh gần vùng đồng bằng nhằm kiểm soát dân chặt chẽ hơn và đánh bật lực lượng cách mạng ra khỏi miền núi. Khi Mỹ- ngụy thực hiện chiến dịch “Thượng du vận”, đồng bào miền núi - nhất là vùng Bến Hiên, Bến Giằng đã sáng tạo ra cách chống giặc độc đáo, chưa từng có trong lịch sử chiến tranh.
Đối phó với những âm mưu của kẻ địch, với phương thức “dọa dẫm chống dọa dẫm”, đồng bào miền núi đã bảo vệ cán bộ cùng phong trào cách mạng, bảo vệ bản làng và căn cứ cách mạng. Đồng bào còn dùng hình thức phao tin “giặc mùa” (săn máu) từ vùng cao xuống làm cho bọn địch không dám tự do lùng sục trong làng, vào nhà dân, vào rẫy như trước nữa mà hoang mang, dao động co cụm lại các đồn đã chiếm đóng. Chỉ cần một nhánh lá tươi treo trước cổng, lính quốc gia đến thì nói làng có một con heo đẻ nên kiêng cử, không ai được đến. Người ta cắm chông nhiều loại xung quanh nhà nói là đề phòng cọp vô bắt heo, nhưng thực tế là không cho địch dễ dàng đi lại, lùng sục.
Vùng núi là nơi an toàn để hoạt động bất hợp pháp. Để không hợp tác với giặc, đồng bào tìm cách chạy vào rừng sâu, núi cao, sau đó dùng vũ khí thô sơ để đánh địch. Đồng bào tích cực đấu tranh chống tề điệp xâm nhập, chống bọn thương lái tay sai của địch tuyên truyền, nói xấu cách mạng, chống khủng bố bằng nhiều hình thức như phạt xô, đấu tranh trực diện với kẻ thù... Năm 1958, Đoàn khảo sát Trung Man của chính quyền Ngô Đình Diệm đã thừa nhận: “Dân Thượng ở đây có khuynh hướng thân Cộng và thái độ bất hợp tác với ta. Một khi có đơn vị quân sự ta lên thì hoặc bỏ chạy vô rừng sâu hay vẫn ở nhà nhưng không bao giờ chịu giúp ta về mặt tin tức hay chỉ đường, dẫn lộ”.
Sau năm 1954, phong trào cách mạng nhiều nơi ở đồng bằng bị vỡ, một số cán bộ, đảng viên và cấp ủy các huyện phía bắc của tỉnh phải lánh lên huyện Bến Hiên, Bến Giằng làm chỗ đứng chân để về địa phương hoạt động hoặc ra miền Bắc. Mặc dù bọn địch cố gắng đẩy “tố cộng, diệt cộng” lên miền núi nhưng do ta vận dụng chính sách dân tộc đúng đắn nên trụ bám vững chắc ở miền núi, không để kẻ địch lợi dụng đồng bào dân tộc chống phá phong trào cách mạng. Cán bộ cách mạng đặc biệt chú ý đến công tác nắm dân và thực hiện công tác dân vận. Nếu không có dân thì cách mạng sẽ bị cô lập. Cán bộ cách mạng thường xuyên ra các làng dân tộc xung quanh để làm quen, lấy tin tức “đổi” lương thực thực phẩm. Đồng bào đã giúp bảo vệ tuyệt đối an toàn cơ quan Liên khu ủy trong suốt những năm đầy gian khó của cuộc kháng chiến.
Dân làng tổ chức đánh địch bằng chông thò, cạm bẫy, vũ khí thô sơ để hạn chế sự lùng sục của địch. Hàng vạn chông thò được chế tạo đặt trên các nương rẫy với danh nghĩa là chống thú rừng phá hại hoa màu, nhưng thực chất là để chống lại các cuộc càn quét, lùng sục của kẻ thù. Để thực hiện phòng gian bảo mật, mỗi làng đều có cổng ngõ, bất kỳ một người lạ mặt nào vào làng cho dù dưới danh nghĩa đi buôn hay đi săn thú rừng... đều bị phát hiện và báo cho cán bộ và già làng biết, xử lý. Chính những hoạt động ấy đã làm thất bại các cuộc truy lùng của địch. Lực lượng tự vệ được trang bị tên, ná, vũ khí thô sơ, mỗi người có 30 tên tẩm thuốc độc, từ 500 - 1.000 chông, chuẩn bị sẵn sàng một số bẫy đá để chống địch càn quét vào buôn làng.
Thời đó, khó khăn lớn nhất là công tác đảm bảo hậu cần. Việc tiếp tế lương thực từ đồng bằng hầu như không thục hiện được do địch bắt đầu phong tỏa các hành lang, đóng đồn ở những vị trí quan trọng trên tuyến đường từ đồng bằng lên miền núi. Cán bộ cách mạng phải vào tận các làng đồng bào dân tộc để vận động, quyên góp lương thực. Từ hạt gạo, gùi sắn, bó rau đều được đồng bào chia sẻ. Đồng bào cưu mang, đùm bọc, cung cấp lương thực thực phẩm cho cơ quan khu ủy và các cuộc họp đông người của liên khu. Đại hội Đảng bộ tỉnh được tổ chức tại thôn Ađhur (nay thuộc thôn Adung, xã A Rooih, huyện Đông Giang) cũng nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng bào. Họ mang đến đại hội những “nhu yếu phẩm” cung cấp cho cán bộ, bao gồm mật ong, sắn, rau, khoai, heo, gà... Thanh niên trong huyện không quản ngày đêm gùi lương thực, thực phẩm từ các xã A Rooih, Dang, A Tiêng, Lăng về phục vụ đại hội.
Ở xã Tư, làng nào cũng có “rẫy cách mạng” để trồng lúa, khi thu hoạch không mang về nhà mà mang vào giúp cơ quan Liên khu ủy. Đồng bào không chỉ cấp lương thực, thực phẩm mà còn tham gia bảo vệ, xóa các dấu vết để tránh bị địch phát hiện. Với phong trào “đóng cửa nhà, trẻ già vận chuyển” nhân dân đã tích cực tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí phục vụ các chiến trường, có ngươi mỗi ngày gùi 5 chuyến, mỗi chuyến 150kg hàng trên lưng; tham gia mở rộng các tuyến đường để voi vận chuyển hàng hóa và đưa pháo xuống giải phóng Đà Nẵng.
(Bài viết có tham khảo tài liệu: Căn cứ Liên khu ủy 5 tại huyện Bến Hiên, Bến Giằng tỉnh Quảng Nam (1955-1960).
TẤN VỊNHNăm 1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng từng viết: “Hội An là thị trấn buôn bán hội tụ đông nhất tỉnh Quảng Nam. Tòa công sứ cũng đóng ở đấy. Không kể dân ở các phủ, huyện trong tỉnh mà dân buôn bán ở các tỉnh lân cận cũng thường qua lại rất đông”. Trước đó, theo tiến sĩ Đỗ Bang: “Đô thị Đàng Trong ra đời là hệ quả của chính sách tiến bộ của các chúa Nguyễn đón nhận đúng thời cơ thương mại quốc tế và di dân đô thị đang phát triển... Hội An trở thành trung tâm thương mại hàng đầu của nước ta thu hút thương khách nhiều nước đến buôn bán và lưu trú...”.
Theo quy luật phát triển, vì vậy, Hội An cũng từng là nơi quy tụ nhiều tinh hoa trong nước.
Từ câu chuyện ở nhà lao Faifo
Tư liệu ghi nhận từ năm 1908 đã có những tù nhân trong vụ kháng sưu ở Quảng Nam bị giam giữ tại nhà lao Hội An. Nhà lao Hội An cũng là đầu mối quan trọng, từ đây các tù nhân tiếp tục bị đày đi các nhà tù lớn khác như Mang Cá, Côn Đảo, Lao Bảo... Từ khi được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 cho đến năm 1945, tại nhà lao Hội An, thực dân Pháp và chính quyền phong kiến Việt Nam đã giam giữ hàng ngàn người yêu nước tham gia các phong trào đấu tranh ở khắp Trung Kỳ như Phong trào chống sưu thuế tháng 3.1908, cuộc khởi nghĩa năm 1916 tại Huế do Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo cho đến khi phong trào Việt Minh đứng lên cướp chính quyền năm 1945...
Nhiều trí thức, chí sĩ uy tín như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Châu Thượng Văn, Tiểu La Nguyễn Thành đã bị địch giam giữ tại đây từ năm 1908. Riêng Châu Thượng Văn đã tuyệt thực ở nhà lao Hội An hơn 20 ngày trước khi bị mất trên đường đưa đi nhà tù Lao Bảo. Đến năm 1947, nhà lao Hội An đã bị nhân dân và chính quyền cách mạng xóa bỏ.
Trong Phong trào Duy Tân và Đông Du, chí sĩ Châu Thượng Văn, tức Châu Thơ Đồng, là một thành viên trung kiên đóng góp công của khá lớn. Ông gốc người làng Minh Hương, nay là phường Minh An, nhưng sinh ra và lớn lên tại Hội An trong một gia đình thương gia buôn bán lớn, có liên lạc với thương gia nước ngoài. Nhờ vậy, Châu Thượng Văn sớm đọc nhiều tân thư đưa từ Trung Quốc, Nhật Bản vào Hội An và sau đó chuyển những tài liệu này cho các đồng chí của mình như Tiểu La Nguyễn Thành, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp...
Sử sách ghi lại rằng, năm 1905, Châu Thượng Văn và Nguyễn Thành đã vận động và đóng góp đến 3.000 đồng đương thời để các nhà cách mạng Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính đủ kinh phí sang Nhật.
|
|
Sau khi bị bắt vì vụ kháng thuế năm 1908 và bị giam tại nhà lao Hội An, ông chọn cách tuyệt thực dài ngày, không tiết lộ mọi thông tin về phong trào và các đồng chí.
Khi Châu Thượng Văn mất, chính cụ Huỳnh đã khóc bạn bằng câu đối: “Người đều sợ chết, ngươi chẳng tham sống nhơ, tám thước mày râu, thẹn với non sông lo bữa gạo/Ai đương việc khó, người đành làm việc dễ, một phần gánh việc, hãy đem tâm huyết tỏ đồng bào”.
Đến "anh hùng kỳ vĩ" của Nghĩa hội
Một người con khác của Hội An cũng đầy khí phách trước đó, là một trong những lãnh tụ của Phong trào Nghĩa hội, không chỉ làm cho thực dân ở Quảng Nam mà nhiều tỉnh Trung kỳ khiếp vía: cụ Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu. Ông là người con của làng Thanh Hà, nay là Cẩm Hà, TP.Hội An.
Khi phong trào thất bại vì quân phản bội Nguyễn Thân, để tránh thiệt hại cho tướng sĩ, sau khi phó tướng Phan Bá Phiến tự vẫn, Nguyễn Duy Hiệu chọn cách nhận mọi trách nhiệm về mình bằng cách nạp mình cho kẻ thù... Các tư liệu về tiểu sử của ông ghi lại: Chứng kiến xong cái chết của người đồng sự tâm phúc, ông trở về quê thăm viếng mẹ già rồi mặc áo dài đen, vấn khăn, ngồi xếp bằng trước bàn thờ trong miếu Quan Công ở làng Thanh Hà và sai người đi báo cho giặc đến bắt.
Trước khi chết Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu đã làm bài thơ tuyệt mệnh, mà sau này cụ Huỳnh Thúc Kháng đã dịch ra quốc ngữ:
Cần vương Nam Bắc
kết tơ đồng,
Cứu giúp đường kia
khổ chẳng thông.
Muôn thuở cương thường
ai Ngụy Tháo?
Trăm năm tâm sự
có Quan Công.
Non sông phần tự
thơ trời định,
Cây cỏ buồn trông
thấy đất cùng.
Nhắn bảo nỗi chìm ai đó tá?
Chớ đem thành bại
luận anh hùng.
Khâm sứ Trung kỳ lúc đó là L.J.Baille, sau cái chết của Nguyễn Duy Hiệu, đã viết: “Con người này có một nghị lực phi thường, một anh hùng kỳ vĩ...”. Còn nhà nghiên cứu lịch sử Trần Viết Ngạc đánh giá: “Sự hy sinh của Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến đã bảo toàn được lực lượng yêu nước thời bấy giờ tại các tỉnh miền Trung. Sự xuất hiện trở lại sau đó của các nhân vật đã từng tham gia Nghĩa hội như Tiểu La Nguyễn Thành, Đỗ Đăng Tuyển, Châu Thượng Văn trong Phong trào Duy Tân, chống thuế Trung kỳ... đầu thế kỷ 20 là một minh chứng”.
Tất cả những chí sĩ, trí thức cách mạng được nhắc tới trên đây đều là những nhân cách lớn mãi còn lưu danh trong sử sách. Thành bại trên con đường đấu tranh cho độc lập và thịnh vượng của Tổ quốc Việt Nam, từ Phong trào Cần Vương, Đông Du hay Duy Tân đến Cách mạng Tháng Tám..., không chỉ đã tô đậm những trang sử oai hùng và đẫm máu, mà nó còn cho thấy những “tinh hoa” dân tộc được đề cập ở đây - dù sinh ra ở Hội An hay vì việc lớn mà quy tụ về đây - cũng đã góp phần tạo cho Hội An một lịch sử sinh động và bề dày văn hóa nhiều lớp nhiều tầng như chúng ta đã thấy...
Trương Điện Thắng
Sự chậm trễ đáng kinh ngạc!
Ngày 21/4/2012, sau khi nhận được thông tin có nhóm lâm tặc vừa đốn hạ 3 cây sưa trong rừng Phong Nha - Kẻ Bàng, phóng viên đã gọi điện thoại thông báo vụ việc cho lãnh đạo VQG Phong Nha - Kẻ Bàng cũng như Chi cục Kiểm lâm và UBND tỉnh Quảng Bình. Thực tế 3 cây sưa đã bị đốn hạ trước đó chừng 1 tháng, và thời điểm đó đã có hàng trăm người ùn ùn kéo nhau vào rừng mót gỗ sưa.
Chiều 22/4, UBND tỉnh Quảng Bình đã tổ chức cuộc họp khẩn nhằm tìm hướng xử lý vụ việc. Song đến ngày 24/4, Ban quản lý VQG Phong Nha - Kẻ Bàng mới thành lập đoàn gồm 80 người do ông Nguyễn Văn Huyên, Phó giám đốc VQG dẫn đầu, vào khu vực Hung Trí... xác minh tin đồn.
Kết quả của sự chậm trễ này là 563m² diện tích rừng bị nhóm lâm tặc khai thác phá hoại. Tại hiện trường đoàn đã phát hiện 3 hố đào bới sâu, ở giữa lòng khe cạn có một bãi bằng diện tích 80m², có nhiều vai, mạt cưa, lá của cây sưa, phủ dày 0,4m trên mặt đất. Tang vật thu được tại hiện trường gồm 1 cân bàn loại 100kg, 2 cưa xích, bai, vai, giác sưa. Tất cả sản phẩm gỗ từ 3 cây sưa đã bị tẩu tán nên tổ kiểm tra không có căn cứ để xác định khối lượng. Đoàn kiểm tra nhận định: Lâm tặc đã thu giấu gỗ trong rừng, chờ đến thời điểm thuận lợi mới vận chuyển ra ngoài. Đến ngày 28/4, VQG Phong Nha - Kẻ Bàng mới có báo cáo hiện trường vụ chặt phá 3 cây gỗ sưa gửi lên UBND tỉnh Quảng Bình.
Đến ngày 6/5, Thường trực Tỉnh ủy Quảng Bình đã tổ chức cuộc họp khẩn xung quanh vụ 3 cây sưa bị triệt hạ ở rừng di sản. Tại cuộc họp này, lãnh đạo tỉnh Quảng Bình mới nhận định: Vụ việc là có thật!
Dư luận vô cùng ngạc nhiên: Vì sao 3 cây gỗ quý như vậy, lại bị đốn hạ dễ dàng ngay giữa rừng di sản - nơi luôn có kiểm lâm bảo vệ nghiêm ngặt - mà lực lượng chức năng không hề hay biết? Các đối tượng trong nhóm đốn hạ gỗ sưa, người dân nào cũng có thể đọc tên vanh vách, nhưng lực lượng liên quan lại không hề hay biết (?). Chỉ khi báo chí lên tiếng, cơ quan chức năng mới tiếp nhận danh sách 11 đối tượng từ Công an xã Phúc Trạch để phục vụ cho quá trình điều tra. Và theo thông tin hiện tại thì 11 đối tượng này đều chưa bị bắt giữ, các đối tượng không có mặt ở địa phương và có thể một vài đối tượng đã vượt biên ra nước ngoài (?).
Cũng vì sự chậm trễ đáng kinh ngạc đó mà một khối lượng gỗ sưa đã được tẩu tán ra khỏi rừng mà không vấp phải sự truy quét của lực lượng chức năng.
7 tấm chứ không phải 5 tấm?
Sau nhiều nỗ lực truy bắt nhóm lâm tặc đốn hạ 3 cây sưa cổ thụ ở VQG Phong Nha – Kẻ Bàng, khoảng 20h ngày 7/5, tại xóm Mới, thôn Bàu Sen, xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch, Đội Kiểm lâm cơ động và Phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR) số 1, Chi cục Kiểm lâm Quảng Bình cùng trạm Kiểm lâm liên ngành Khe Sến mới bắt được 5 hộp gỗ sưa với trọng lượng 366kg, trị giá khoảng 10 tỷ đồng.
Để làm rõ vấn đề trên, PV trao đổi với ông Nguyễn Văn Huyên, Phó GĐ Ban quản lý VQG Phong Nha - Kẻ Bàng. Ông Huyên cho biết hôm đó lực lượng kiểm lâm truy quét trong đêm tối, lại làm gấp vì sợ người dân tấn công, cướp lại hàng nên cũng không loại trừ khả năng có thể còn bỏ sót gỗ (?!).
Vì sao bán đấu giá gỗ sưa lúc này(?!)
Một dấu hiệu bất thường khác của vụ việc là trong khi tình hình gỗ sưa đang diễn biến phức tạp thì ngày 4/5, Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Quảng Bình bất ngờ ra thông báo bán lô gỗ sưa nặng 58kg với giá khởi điểm là 750 triệu đồng, khoảng 13 triệu đồng/kg.
Dư luận đều thắc mắc tại sao tỉnh Quảng Bình lại đưa lô gỗ trên ra đấu giá vào đúng thời điểm nhạy cảm này?
Lý giải điều này, một lãnh đạo Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Quảng Bình cho biết: "Việc tổ chức bán đấu giá 58kg gỗ sưa trên với giá 750 triệu là chúng tôi làm đúng theo quy trình. Vì số gỗ sưa này đã được Hạt Kiểm lâm huyện Quảng Ninh bắt cách đây 2 năm".
Dư luận lại không nghĩ thế. Người dân cho rằng việc bán đấu giá gỗ sưa lúc này sẽ là cơ hội tốt để các đầu nậu lợi dụng làm giả hồ sơ cho số gỗ sưa chúng vừa chặt hạ và tẩu tán ra khỏi VQG Phong Nha - Kẻ Bàng.
Những dấu hiệu bất thường và có phần “lạ lùng” trên đã lý giải cho băn khoăn của người dân, rằng có phải đang có một thế lực “khủng” ẩn nấp phía sau vụ triệt hạ 3 cây sưa trăm tỉ trong khu rừng di sản?
P.V
|
Ông Bảng cho biết: “Tôi có đọc loạt bài “Loạn” phiên âm của Báo Thanh Niên. Báo đề cập rất trúng vấn đề đang bức xúc lâu nay của giới ngôn ngữ học. Quả thực, không riêng ở SGK mà ở cả báo chí, từ có nguồn gốc nước ngoài dùng trong tiếng Việt chưa có một chuẩn mực nào cả về chính tả lẫn phát âm. Sự phức tạp trong phiên âm có những nguyên nhân của nó như hệ chữ viết, mục đích phục vụ cho các đối tượng khác nhau, từ lịch sử để lại (phiên âm qua âm Hán - Việt)... Chính vì vậy, sử dụng một biện pháp nhất quán, cứng nhắc trong vấn đề này là không được mà phải có giải pháp linh hoạt hơn. Tuy nhiên nên có một tư tưởng chủ đạo”.
Báo Pháp luật TP.HCM cho hay, gần đây tại xã Thanh Lâm, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xuất hiện lời đồn câu bé “thần đồng” 1 tuổi đã giải toán lớp 5, và 5 tuổi đã giải thành thạo toán lớp 9. Đối với những bài đơn giản, em không cần đặt phép tính mà chỉ tính nhẩm là ra kết quả. Được biết, không những thông minh, giải được các bài toán cấp II, Bảo còn có một trí nhớ đáng ấn tượng. Đó là biệt tài nhớ tên thủ đô và quốc kỳ của gần 90 nước trên thế giới.
Tuy nhiên, theo PGS.TS Văn Như Cương, trường hợp em Bảo không thể coi là“thần đồng” mà chỉ là một cậu bé bình thường, tất cả những kiến thức đó là do nhồi nhét, nhào nặn mà ra. Trên thực tế, nhiều trẻ em còn có khả năng cao siêu hơn Bảo. Cách đây vài năm, chỉ trong vòng 10 tháng, thầy giáo Trần Phương (PGĐ Trung tâm nghiên cứu phát triển các sản phẩm trí tuệ) đã luyện cho 5 học sinh lớp 6 giải đề thi ĐH môn Toán đạt điểm trung bình tới 8/10.
Trang 32 trong tổng số 35
BẢN QUYỀN THUỘC VỀ TRƯỜNG PTDTBT - THCS TRÀ DON
Địa chỉ: thôn 2, xã Trà Don, huyện Nam Trà My, Tỉnh Quảng Nam. Tel: 05106.506.669.